Thứ Năm, 8 tháng 12, 2016

Cùng khám phá hành trình: Hoàng Anh Gia Lai đấu tay đôi Global Witness

"Thông tin trên muốn kiểm tra không khó. Chỉ cần đến Bộ Lâm nghiệp các quốc gia này kiểm tra, xem họ đã ký cho doanh nghiệp nào khai thác, rồi số gỗ này đã bán cho ai... Cũng theo quy định của Chính phủ Lào, DN đầu tư vào đây phải sử dụng 90% lao động địa phương. Vậy nên, cáo buộc của GW nói chúng tôi cướp đất, dân không có việc làm thì cao su của chúng tôi ai làm?", ông Đức cho biết.

Dù được báo chí trong nước chia sẻ nhưng Tập đoàn HAGL có "thoát hiểm" khỏi cơn bão mang tên Global Witness không lại là chuyện khác.
Gió chưa lặng
Đầu tuần trước, tổ chức phi chính phủ Global Witness (GW) bất ngờ công bố một báo cáo mang tên "Các ông trùm cao su: Cách thức các công ty Việt Nam và các nhà tài phiệt quốc tế đang tiến hành cuộc khủng hoảng chiếm đất tại Campuchia và Lào".
Trong báo cáo này, GW đã nhắc đến Tập đoàn HAGL và cáo buộc HAGL hối lộ, chiếm đất, phá rừng, khai thác gỗ trái phép, gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường và đời sống ở Lào, Campuchia.
Ngoài ra, GW cũng lên án Công ty Tài chính Quốc tế (IFC) và Deutsche Bank vì đã gián tiếp lẫn trực tiếp tài trợ vốn cho HAGL, vi phạm các cam kết về xã hội, môi trường.
Theo giới bình luận, các tội trạng mà GW gán cho HAGL là rất nặng nề, nên dù ông Đoàn Nguyên Đức, Chủ tịch HAGL, đã lập tức lên tiếng phản bác thì giá cổ phiếu HAG vẫn lao dốc.
Hôm 14/5, một ngày sau khi báo cáo của GW loan đi, thị trường chứng kiến một cuộc tháo chạy thực sự khỏi cổ phiếu HAGL với lệnh đặt bán hơn 5,7 triệu đơn vị, cao nhất từ trước đến nay.
Nhà đầu tư trong nước hoảng loạn còn khối ngoại bán ròng hơn 22 tỷ đồng. Giá cổ phiếu cũng giảm mạnh 6,1%, về mức 21.400 đồng chỉ trong một ngày.
Đành rằng khối ngoại đã quay trở lại mua ròng và giá cổ phiếu đã về mức như cũ ở những ngày tiếp theo nhưng theo giới quan sát, điều này không có nghĩa "sóng đã lặng, gió đã dừng" với HAGL.
Trên thực tế, chỉ ba ngày (14-16/5) sau khi báo cáo của GW phát đi, truyền thông trong nước lẫn quốc tế đều vào cuộc. Các hãng thông tấn lớn trên thế giới như AFP, CNN, BBC, Reuters, Time, Del Spiegel... đều có bài viết đề cập.
Còn thông tin phỏng vấn ông Đoàn Nguyên Đức về chủ đề này thì tràn ngập trên các mặt báo trong nước. Điều này cho thấy, báo cáo của GW có sức lan tỏa rất lớn và HAGL rõ ràng có những lo ngại nhất định về độ ảnh hưởng từ báo cáo của GW.
Theo giám đốc một công ty chứng khoán ở TP.HCM, vì báo cáo đưa ra từ một tổ chức phi chính phủ, lại đụng đến những vấn đề nhạy cảm, liên quan đến hủy hoại môi trường, an sinh xã hội, tham nhũng... nên nếu HAGL không nhanh chóng dập tắt những thông tin tiêu cực nói trên, thiệt hại sẽ không chỉ dừng ở giá cổ phiếu.
Thiệt hại đáng lo cho HAGL là các kế hoạch huy động vốn sau này có thể sẽ gặp rất nhiều trở ngại. Vì ngoài yếu tố sinh lợi, các tổ chức đầu tư sẽ phải đắn đo xem khoản đầu tư vài chục triệu USD liệu có khiến cả danh mục hàng tỷ USD bị mang tiếng.
Trong khi đó, theo các tài liệu công bố, HAGL còn rất nhiều dự án lớn như mở rộng diện tích cao su, cọ dầu, mía đường, xây nhà máy chế biến... cần gọi vốn đầu tư.
Nguy hiểm hơn, nếu HAGL không khôn khéo trong xử lý thông tin cáo buộc, các phân tích chỉ ra, có thể rơi vào tình huống tương tự Sina Mars (Indonesia).
Trước thời điểm bị Tổ chức Hòa Bình Xanh cáo buộc "trồng cọ không bền vững" năm 2010, Sina Mars là nhà cung cấp dầu cọ cho Nestlé trong sản xuất sản phẩm Kit Kat.
Tuy nhiên, với video giễu cợt bánh Kit Kat làm từ dầu cọ trồng trên đất phá rừng, cộng đồng mạng đã tẩy chay mạnh mẽ sản phẩm Kit Kat. Nestlé buộc phải dừng mua dầu cọ từ Sina Mars để cứu nguy cho sản phẩm.
Rõ ràng, nếu HAGL không thể xóa tan các mối ngờ vực liên quan đến những cáo buộc từ GW, các khách hàng tiềm năng của HAGL như Michelin, Bridgestone sẽ nhớ bài học Nestlé để e dè trong quyết định mua cao su từ HAGL.
Nếu thế, đầu ra cao su của HAGL sẽ gặp khó và "nồi cơm"của HAGL có thể bị ảnh hưởng nghiêm trọng vì cao su dự kiến sẽ đóng góp chủ yếu vào cơ cấu lợi nhuận năm 2013 và các năm tiếp theo của tập đoàn này.
Global Witness là ai?
Global Witness là một tổ chức phi chính phủ, có trụ sở ở Anh và Mỹ, được thành lập năm 1993, được tài trợ bởi tỷ phú George Soros (năm 2012, góp 40% ngân sách), các cơ quan chính phủ của Anh, Thụy Điển, Nauy, Hà Lan, Ailen (góp 38%) các nhà tài trợ khác (22%)...
Điều tra của Global Witness kết luận rằng HAGL và Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam đã được phân bổ tổng cộng hơn 280.000ha đất để lập đồn điền cao su ở Lào và Campuchia. GW nói những người sống trên các khu đất được giao lại cho các công ty Việt Nam đã bị đuổi ra khỏi nhà mà không được bồi thường thỏa đáng hoặc không được bồi thường chút nào.
Cần nhiều bằng chứng hơn
HAGL đã có những động thái kịp thời khi lên tiếng và thanh minh với báo chí trong nước về khả năng vô tội của mình.
Tuy nhiên, theo giới quan sát, HAGL cần phải trưng ra các bằng chứng nhiều hơn.
Lấy ví dụ, diện tích đất thực sự mà HAGL được cấp phép đầu tư ở Campuchia là bao nhiêu (cả hiện tại và trong kế hoạch).
Tại sao GW có thể hiểu lầm HAGL có hơn 47.000ha đất trồng cao su trong khi Tập đoàn chỉ nắm 29.000ha?
HAGL đã nhắc tới một số công ty ăn theo tên Hoàng Anh Gia Lai, vậy đó những công ty nào và tại sao HAGL không tố cáo họ mạo danh?...
Ngoài ra, do báo cáo của GW hướng đến đối tượng là nhà đầu tư, tổ chức nước ngoài, được truyền thông quốc tế chú ý, nên theo giới phân tích, HAGL phải tập trung thanh minh với các đối tượng này.
Việc HAGL chỉ tìm cách thông tin trong nước được đánh giá là ít ý nghĩa và không hiệu quả.
Thực tế, HAGL không cần phải làm mọi cách để GW thay đổi hay đính chính những cáo buộc. Bởi như các chuyên gia đánh giá, khả năng này ít xảy ra.
Việc cần làm của HAGL là phải chủ động liên hệ để biết các tổ chức đầu tư, các đối tác, khách hàng, các hãng thông tấn quốc tế nghĩ gì và đánh giá gì về HAGL sau khi đọc các cáo buộc trên.
Từ cơ sở này, HAGL đưa ra những thông tin, bằng chứng có lợi cho mình. Đặc biệt, nếu các cổ đông ngoại của HAGL như Dragon Capital, Jaccar, Teskmase Holdings hay các đối tác, khách hàng quốc tế, truyền thông thế giới... lên tiếng bênh vực, cơ hội cho HAGL "lật ngược thế cờ" mới cao.
Theo một quan sát viên, thách thức cho HAGL là không dễ thuyết phục những đối tượng này. Vì thế, song song các kế hoạch tổ chức họp báo, mời gặp gỡ, tham quan dự án..., HAGL cần tăng cường củng cố các bằng chứng của mình. Nếu có đủ chứng cớ chứng minh cáo buộc của GW là sai, một số ý kiến cho rằng, HAGL nên kiện GW ra tòa.
Chỉ riêng việc HAGL dám khởi kiện cũng đã gởi đi thông điệp "vàng không sợ lửa". Nếu thắng kiện, uy tín của HAGL sẽ tăng cao và HAGL sẽ có thêm khoản tiền đáng kể từ bồi thường thiệt hại do báo cáo của GW gây nên.
Trong bối cảnh bất động sản đang đóng băng và thị trường chứng khoán lao dốc, cáo buộc của GW càng làm cho tình hình của HAGL khó khăn thêm.
Bầu Đức nói gì?
Theo đánh giá chung, GW là một tổ chức phi chính phủ có thế lực và ảnh hưởng đến giới truyền thông, nên càng phản bác mạnh mẽ, HAGL càng dễ thành tiêu điểm của truyền thông thế giới.
Có thể những vụ lùm xùm này sẽ khiến hai đối tác lớn của HAGL là Michelin hay Bridgestone phải cân nhắc kỹ trước khi mua cao su từ HAGL. Vì vậy, quản lý của một quỹ đầu tư nước ngoài chia sẻ:
"Nếu GW một mực khẳng định việc HAGL phá rừng và tuyên bố điều đó khắp mọi nơi thì đó là quyền của họ. Và lẽ ra nếu như người ta thấy những yếu tố sai lệch trong đó và không nói đến nữa thì mọi việc sẽ lắng xuống. Vấn đề là có nhiều người quan tâm quá và anh Đức lại nói không khéo lắm về vấn đề này".
Nhưng ở góc nhìn khác, một số doanh nghiệp (DN) lại đồng cảm và đồng tình với HAGL, coi đây cũng là những khó khăn, rủi ro mà DN Việt Nam khó tránh khi làm ăn ở nước ngoài.
Theo ông Trần Bắc Hà, Chủ tịch Hiệp hội DN Việt Nam tại Lào, một số dự án đầu tư hiện vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Song, các đề xuất, kiến nghị của DN Việt Nam còn đơn lẻ và việc giải quyết của phía Lào cũng chỉ là xử lý cho từng DN, chưa tạo ra hành lang chung, nên nhiều dự án đã được cấp phép chưa được thực hiện theo đúng tiến độ cam kết.
Bên cạnh đó, ở lĩnh vực tài chính cũng đã có những trường hợp đưa ra đánh giá nhưng không khớp nhau giữa các tổ chức.
Ông Nguyễn Sơn, Phó trưởng Ban Phát triển thị trường chứng khoán (TTCK) - Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, đã từng chia sẻ về vấn đề này:
"Theo tôi, mỗi tổ chức đều có quyền đưa ra các bản đánh giá, nhận định về TTCK. Tuy nhiên, cách tiếp cận các dữ liệu phân tích giữa các tổ chức đầu tư trong nước và các tổ chức đầu tư nước ngoài sẽ khác nhau. Mặt khác, quy trình phân tích, đánh giá cũng như các tham số xác lập mô hình ở mỗi tổ chức đều có sự khác nhau".
* Cho Chính phủ Lào vay 19 triệu USD để xây Làng SEAGames có phải là động thái để HAGL được Lào ưu đãi đầu tư?
- Khi Chính phủ Lào qua gặp Chính phủ Việt Nam đề nghị huấn luyện giúp đôi bóng, họ cũng gặp tôi và đưa ra đề nghị tương tự. Lúc đó, tôi đang có ý định đầu tư vào Lào và cũng thích người Lào hiền hòa nên đồng ý. Sau đó, đích thân Phó Thủ tướng Lào vận động tôi xây nhà ở cho vận động viên. Đương nhiên khi thành công thì uy tín và mối quan hệ của HAGL với Chính phủ Lào cũng có và tốt đẹp hơn. Nghĩ vậy, tôi cho vay 19 triệu USD nhưng số tiền cho vay này phải được Chính phủ Việt Nam chấp thuận.
(Đoàn Nguyên Đức, Chủ tịch HAGL)
Ông Phạm Đức Bình, Chủ tịch Hội Doanh nghiệp Trẻ Đồng Nai, cho rằng:
"Các DN trong lĩnh vực liên quan đến môi trường thường gặp rủi ro rất lớn, vì có làm tốt cũng không thể hoàn hảo 100% và không có sai sót. Tuy nhiên, khi bị oan sai thì việc đấu tranh bảo vệ mình là hành động tự cứu mình.
Nếu những cáo buộc của GW được HAGL khẳng định là không có căn cứ thì HAGL càng phải dũng cảm phản bác. Đây cũng là bài học cho DN Việt Nam".
Sau khi cáo buộc của GW phát đi, cổ phiếu của HAGL hai ngày liên tiếp giảm giá khiến nhiều cổ đông hoang mang. Tuy nhiên, trả lời Báo DNSG, ông Đức khẳng định:
"GW đã từng bị Chính phủ Campuchia cấm nhập cảnh vì công bố những số liệu thiếu chính xác, làm ảnh hưởng tới môi trường đầu tư tại nước này.Chính phủ Lào và Campuchia kêu gọi DN của cả thế giới đầu tư chứ không chỉ riêng HAGL. Họ trải thảm mời đầu tư với ưu đãi miễn thuế 6-7 năm thì làm sao cáo buộc mình đút lót để lấy dự án?"
Cũng theo ông Đức, quy định đầu tư ở Lào và Campuchia cũng rất chặt chẽ, có xác nhận của Thủ tướng và thẩm định của phía Việt Nam. Tất cả gỗ nằm trên đất quy hoạch đầu tư của HAGL do Chính phủ Lào quản lý, ủy quyền cho một đơn vị khai thác, sau đó đấu giá công khai.
Tuy có quyền tham gia nhưng HAGL không tham gia đấu thầu khai thác số gỗ trên diện tích đất khai hoang mà Tập đoàn đã làm thủ tục thuê để trồng cao su.
Ngay cả khoản tài trợ 19 triệu USD để Lào tổ chức Sea Games 25 năm 2009, phía Lào đề nghị trả số tiền này cho HAGL bằng gỗ nhưng HAGL không chấp nhận mà chỉ nhận tiền mặt. Từ trước tới nay, HAGL không hề mua bất kỳ một khối gỗ nào của Lào.
"Thông tin trên muốn kiểm tra không khó. Chỉ cần đến Bộ Lâm nghiệp các quốc gia này kiểm tra, xem họ đã ký cho doanh nghiệp nào khai thác, rồi số gỗ này đã bán cho ai... Cũng theo quy định của Chính phủ Lào, DN đầu tư vào đây phải sử dụng 90% lao động địa phương. Vậy nên, cáo buộc của GW nói chúng tôi cướp đất, dân không có việc làm thì cao su của chúng tôi ai làm?", ông Đức cho biết.
Bài học đánh giá về môi trường
Trong cáo buộc của mình, GW đã công bố những tác hại về môi trường cũng như đời sống cùng cực của người dân hai nước mà họ đã điều tra.
Tổ chức này nhấn mạnh họ giữ nguyên các luận điểm và chứng cứ đã nêu trong báo cáo. Global Witness có các tài liệu về việc vi phạm phạm pháp luật tại các vườn cao su của HAGL tại Lào và Campuchia trong năm 2012.
Bằng chứng đã được nêu trong báo cáo “Các ông trùm cao su” cho thấy HAGL đã mua một lượng lớn đất đai, gấp 5 lần so với hạn mức tối đa được phép tại Campuchia và việc công ty đã công khai bỏ qua các biện pháp bảo vệ môi trường tự nhiên cũng như xã hội, tàn phá kế sinh nhai của người dân địa phương và các khu rừng trong quá trình trồng cao su.
"Thay vì giải quyết các bằng chứng trong báo cáo và cải thiện tình hình cho hàng trăm người bị ảnh hưởng, Hoàng Anh Gia Lai tỏ ra quan tâm hơn với việc bảo vệ hình ảnh của mình. Liệu công ty sẽ phải làm gì để ngăn chặn sự hủy hoại mà họ phải chịu trách nhiệm” – bà Megan MacInnes, Trưởng nhóm Tài nguyên đất của Global Witness cho biết.
Về phần mình, lãnh đạo HAGL cho biết, hiện công ty đang có 14 công ty con có trụ sở tại Lào và Campuchia, chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực cao su, mía đường và trồng rừng. Khi đầu tư vào Lào, HAGL đã tài trợ 30 triệu USD cho tỉnh Attapeu và đến nay bộ mặt của tỉnh cực nghèo này đã khởi sắc.
Tính đến nay, HAGL đã xây dựng 2.000 ngôi nhà cấp cho dân, xây ba cây cầu lớn, trường học, bệnh viện, kéo hàng trăm km đường điện, giải quyết việc làm cho gần 3.000 lao động, GDP bình quân của tỉnh Attapeu đã tăng gấp ba lần khi HAGL đầu tư vào đây, từ 300USD lên 1.000 - 1.100USD/năm.
Hiện thu nhập trung bình của công nhân làm cho HAGL vào khoảng 250 - 300USD/tháng. Ông Đức cũng khẳng định: "Do mía đường và cao su là hai lĩnh vực nhạy cảm về môi trường tự nhiên, xã hội nên ngay từ đầu chúng tôi đã ý thức chuyện này, nhưng dù làm tốt đến mấy cũng có khiếm khuyết, có thể chưa đạt tiêu chuẩn thế giới.
Vì vậy, sắp tới chúng tôi sẽ tiếp tục hoàn thiện và đáp ứng các tiêu chuẩn của thế giới, chứ không chỉ đáp ứng tiêu chuẩn của nước sở tại như hiện nay. Hiện HAGL đã mời các tập đoàn, các tổ chức tư vấn lớn nhất thế giới trong lĩnh vực này để đánh giá lại toàn diện hệ thống môi trường cho Tập đoàn và sẽ thực hiện Chứng chỉ rừng bền vững (FSC)"

Cùng bạn đón xem chuyện Nghi vấn DN FDI chuyển giá: Bao giờ có kết luận?

Trong khi đó, theo nghiên cứu của Công ty Nghiên cứu thị trường Kantar Worldpanel, cũng giống như thị trường Indonesia, trong suốt những năm qua, Coca-Cola luôn nằm trong top dẫn đầu về thương hiệu ưa chuộng nhất, nhưng xét về lợi nhuận, trong khi Coca-Cola Indonesia luôn báo cáo sự tăng trưởng, thì trái lại Coca-Cola Việt Nam toàn... lỗ.
Cả Coca-Cola và người tiêu dùng Việt Nam cần một kết luận minh bạch
Gần đây, trên các mạng xã hội xuất hiện video "Chuyện của Mai" có nội dung phản đối mạnh mẽ Coca-Cola sau nghi án chuyển giá nhằm trốn thuế tại Việt Nam. Sở dĩ diễn ra sự phản ứng này là do sự chậm trễ trong điều tra và đưa ra kết luận từ các cơ quan quản lý có trách nhiệm.
Trong gần 20 năm đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam, Coca-Cola liên tục báo lỗ nên hãng không phải đóng thuế. Chỉ riêng trong năm 2010, hãng này đã báo cáo lỗ 188 tỷ đồng, tương đương 8,98 triệu USD ở thị trường Việt Nam.
Lũy kế, con số thua lỗ mà Coca-Cola Việt Nam báo cáo lên tới 180 triệu USD trong thập kỷ vừa qua. Cho dù liên tục kêu lỗ như vậy, song trong kế hoạch 3 năm tiếp theo của công ty này, Coca-Cola vẫn dự kiến đầu tư thêm 300 triệu USD để mở rộng kinh doanh tại Việt Nam. Điều này khiến Coca-Cola không tránh khỏi nghi án chuyển giá.
Đáng chú ý là trong danh sách các DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) bị nghi vấn dính đến chuyển giá hoặc trốn thuế còn xuất hiện nhiều thương hiệu lớn khác, trong đó có cả Pepsi, Adidas, thậm chí là Samsung.
Thành lập từ năm 1993, doanh thu của Adidas Việt Nam lên tới 22.000 tỷ đồng, sử dụng khoảng 80.000 lao động tại Việt Nam nhưng Adidas vẫn thường xuyên báo lỗ.
Trước nghi vấn dành cho các DN Mỹ, ông Adam Sitkoff, Giám đốc Điều hành Phòng Thương mại Mỹ tại Hà Nội, đã có những nhận định: "Tại những quốc gia có khung pháp luật chặt chẽ, kín kẽ và minh bạch thì sẽ không có gì đáng lo ngại. Tuy nhiên, Việt Nam không may là không nằm trong số đó”.
Ông Adam Sitkoff còn cho rằng, mặc dù mọi việc đang tranh cãi song vẫn chưa có bằng chứng nào cho thấy Coca-Cola có hành vi bất hợp pháp ở Việt Nam.
"Ngay cả như ở Mỹ, nhiều công ty lớn vẫn không phải trả thuế mặc dù họ dường như hoạt động thành công", đại diện Phòng Thương mại Mỹ tại Hà Nội nói thêm .
Một tập đoàn có lịch sử lâu đời như Coca-Cola thừa hiểu phải giải quyết ra sao khi gặp phải sự phản ứng từ hai phía: cơ quan quản lý quốc gia sở tại và người tiêu dùng.
Riêng về cơ quan quản lý, chuyện chuyển giá bằng cách này hay cách khác đều đã được đem ra mổ xẻ, ngay chính Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh đã phải đăng đàn trả lời. Nhưng nhìn chung, việc giải quyết rốt ráo vấn đề này vẫn chưa được cơ quan quản lý thực hiện.
Cùng lúc này, một thông tin mới sẽ càng khiến bộ phận thu hút đầu tư nước ngoài lo nghĩ là việc công bố đầu tư lớn của Coca-Cola vào Indonesia.
Giám đốc Tài chính Coca-Cola Amatil Indonesia (CCAI - có trụ sở tại Úc), ông Stuart Comino cho biết, nhà sản xuất và phân phối thương hiệu Coca-Cola cho khu vực châu Á - Thái Bình Dương này sẽ đầu tư 500 triệu USD trong vòng 3 - 4 năm tới vào Indonesia.
Ông Stuart Comino cho biết thêm, công ty sẽ chi 90 triệu USD trong năm nay, bao gồm 40 triệu USD xây dựng một nhà máy mới tại Semarang, tỉnh Trung Java, 20 triệu USD và 30 triệu USD cho hai dây chuyền sản xuất đồ uống tại Surabaya, tỉnh Đông Java và Cibitung, tỉnh Tây Java.
Theo báo cáo tài chính năm 2012 của CCAI, Indonesia và Papua New Guinea ghi nhận doanh thu cao nhất so với các thị trường khác mà công ty đang có mặt, bao gồm Úc, New Zealand và Fiji, trong đó Indonesia đạt mức tăng trưởng 10,3% đối với các thương hiệu quen thuộc như Coke, Sprite và Fanta.
Tổng giám đốc CCAI, ông Erich Rey nói rằng doanh thu của công ty sẽ đạt mức tăng trên 10% năm nay và sẽ vẫn dẫn đầu thị trường nước giải khát có ga ở Indonesia.
Trong khi đó, theo nghiên cứu của Công ty Nghiên cứu thị trường Kantar Worldpanel, cũng giống như thị trường Indonesia, trong suốt những năm qua, Coca-Cola luôn nằm trong top dẫn đầu về thương hiệu ưa chuộng nhất, nhưng xét về lợi nhuận, trong khi Coca-Cola Indonesia luôn báo cáo sự tăng trưởng, thì trái lại Coca-Cola Việt Nam toàn... lỗ.
Bộ trưởng Bùi Quang Vinh cho biết, đã có đề án về chống chuyển giá nhưng phải có sự phối hợp giữa nhiều cơ quan chức năng. Việc điều tra chuyển giá sẽ chỉ áp dụng với một số DN, không áp dụng đồng loạt để tránh ảnh hưởng xấu tới hình ảnh môi trường đầu tư ở Việt Nam.
Tuy nhiên, trước phản ứng của người tiêu dùng, muốn hay không thì cơ quan quản lý nên sớm đưa ra kết luận về các nghi án chuyển giá trong thời gian qua. Việc này vừa thể hiện sự tôn trọng dư luận, vừa bảo vệ được những nhà đầu tư FDI chính đáng không bị rơi vào cuộc khủng hoảng về quan hệ công chúng tại Việt Nam.

Đi tìm hiểu nguyên nhân vì sao thép lại bị kiện bán phá giá?

Kể từ năm 2011, đây là vụ kiện thứ ba của Mỹ nhằm vào các sản phẩm thép nhập khẩu từ Việt Nam. Trong năm 2011 và 2012, ngành thép Việt Nam khá lận đận khi phải đối phó với năm vụ kiện chống bán phá giá và hai vụ kiện chống trợ cấp từ thị trường Mỹ, Brazil, Thái Lan và Indonesia, chiếm gần một nửa tổng số các vụ kiện trong thời gian này.
Theo Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công Thương), ba doanh nghiệp của Mỹ, ngày 16/5 đã nộp đơn lên Ủy ban Thương mại Quốc tế Mỹ (ITC) và Bộ Thương mại Mỹ (DOC) yêu cầu áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với mặt hàng trên nhập khẩu từ Việt Nam, Thái Lan, và Malaysia.
Theo số liệu được cung cấp trong đơn kiện, trong năm 2012, Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ ống thép chịu lực không gỉ với kim ngạch 16,3 triệu USD, tổng khối lượng 4.627 tấn, chiếm 6,61% thị phần nhập khẩu vào Mỹ.
Là một trong những doanh nghiệp xuất khẩu thép không gỉ, ông Trần Tuấn Nghiệp, Tổng giám đốc Công ty CP Hữu Liên Á Châu (HLAC - công ty bị đơn tự nguyện trong vụ điều tra chống bán phá giá, chống trợ cấp ống thép cacbon tại Mỹ), cho biết, Mỹ là thị trường chính của công ty, đặc biệt những sản phẩm mới của HLAC đang hướng đến thị trường này.
Theo ông Nghiệp, việc cạnh tranh về giá trong thị trường thép khá khốc liệt, nên chỉ cần bị đánh thuế thêm vài phần trăm thì doanh nghiệp khó có thể cạnh tranh nổi. Nếu bị áp thuế cao, doanh nghiệp Việt Nam có nguy cơ không bao giờ có thể quay lại được thị trường Mỹ.
Kể từ năm 2011, đây là vụ kiện thứ ba của Mỹ nhằm vào các sản phẩm thép nhập khẩu từ Việt Nam. Trong năm 2011 và 2012, ngành thép Việt Nam khá lận đận khi phải đối phó với năm vụ kiện chống bán phá giá và hai vụ kiện chống trợ cấp từ thị trường Mỹ, Brazil, Thái Lan và Indonesia, chiếm gần một nửa tổng số các vụ kiện trong thời gian này.
Trong đó, ống thép cacbon, và mắc áo thép bị kiện và điều tra kép (tức vừa chống bán phá giá vừa chống trợ cấp) tại Mỹ. Theo Hội đồng Tư vấn các biện pháp phòng vệ thương mại quốc tế (Hội đồng TRC), việc đối phó với vụ kiện kép có nghĩa là doanh nghiệp phải bỏ gấp đôi thời gian, công sức và tiền bạc để thuê luật sư tư vấn, chuẩn bị tài liệu, trả lời bảng câu hỏi điều tra.
Theo đó, đối với một ngành chưa từng có kinh nghiệm kháng kiện chống bán phá giá và chống trợ cấp như ngành thép, thì việc trong một thời gian ngắn phải đối phó với nhiều vụ kiện là điều khó khăn.
Tuy nhiên, theo kết quả điều tra của Mỹ công bố trong những tháng cuối năm 2012, ống thép carbon của Việt Nam sẽ không bị áp thuế chống bán phá giá cũng như chống trợ cấp tại Mỹ.

Cùng tìm hiểu về việc nhọc nhằn chuyện thu hồi công nợ

Ông Trần Tuấn Dũng, một nhà kinh doanh tại quận 10, TP.HCM cho biết: “Tôi đã phải mất rất nhiều công sức để tìm ra một công ty làm dịch vụ đòi nợ hiệu quả: dịch vụ tốt, mức phí phù hợp, khả năng hiểu biết luật pháp chắc chắn và hoạt động tư vấn cũng như thực thi thu hồi nợ hiệu quả. Nhưng qua quá trình này tôi thấy, cũng không nên cố đấm ăn xôi. Bởi nếu thu hồi nợ mà tốn nhiều chi phí quá thì thà bấm bụng cho qua, dành thời gian và công sức làm ra khoản tiền mới có ích hơn”.
Trong khi Chính phủ vẫn đang tìm kiếm giải pháp xử lý khối nợ xấu tại các ngân hàng thì các “khổ chủ” cũng đang tìm đủ mọi cách để thu hồi công nợ.
Bà Nguyễn Thanh, chủ một công ty thương mại tại quận Gò Vấp TP.HCM đang mừng như bắt được vàng vì vừa đòi được một khoản nợ 6 tỷ đồng bị dây dưa đã hai năm nay.
Bà nói: “Lần đầu tiên công ty của chúng tôi phải có riêng một bộ phận thu hồi công nợ thay vì chỉ có một nhân viên ở phòng kế toán như trước đây. Để đòi được khoản nợ này, chúng tôi phải đầu tư nhiều thời gian và công sức đề ra chiến lược, sách lược, lập kế hoạch và kiên nhẫn thực thi để đòi nợ”.
Rồi bà thở dài: “Thời buổi làm ăn khó khăn mà lo đòi nợ đã hết cả ngày”.
Từ tự thân vận động…
Theo bà Thanh, bà mới chỉ là loại chủ nợ nho nhỏ. Ở tòa án, loại kiện cáo đòi nợ bây giờ đầy rẫy, chờ được thụ lý vụ án cũng… hết hơi. Thậm chí có những khoản nợ lên tới vài chục, có khi cả trăm, cả ngàn tỷ đồng. Nợ càng lớn càng khó đòi.
Ông Đỗ Quang Hiển (thường được gọi là bầu Hiển), Chủ tịch HĐQT Ngân hàng SHB nhận định trong kỳ họp Đại hội cổ đông của ngân hàng đầu tháng 4/2013: “Nợ xấu là vấn đề rất khó xử lý. Thậm chí nợ quá hạn hiện đã khó xử lý chứ chưa cần đến nợ xấu”.
Ông Hiển cũng mô tả cảnh “trần ai” khi đi đòi nợ. Nhiều khi ra tòa xử rồi, đang thi hành án rồi, nhưng chỉ cần có bất kỳ một khiếu nại nào đó lại bị hoãn. Có những vụ thi hành án 3 năm rồi mà vẫn chưa thu hồi xong khoản nợ. Do đó, để xử lý nợ xấu, SHB đã phải áp dụng nhiều loại “võ”.
Không riêng gì SHB, tại nhiều ngân hàng, bộ phận đòi nợ đang được tập trung nhân sự để cứu vãn tình thế.
Ngoài việc thu nhận nhân viên từ bộ phận tín dụng từng góp phần ít nhiều vào các khoản nợ xấu, các ngân hàng còn tuyển thêm nhân sự có kinh nghiệm đòi nợ, tổ chức các khóa đào tạo ngắn hạn về kỹ năng đòi nợ với hy vọng giảm mức nợ xấu xuống càng nhanh càng tốt.
Tuy nhiên, để đỡ tốn chi phí nội bộ, đồng thời tự thấy khả năng tự đòi nợ của mình không cao, nhiều doanh nghiệp đã chọn giải pháp thuê ngoài.
… Đến dịch vụ đòi nợ chuyên nghiệp
“Tiền của bạn phải về túi bạn”, “Nơi tài chính hồi sinh” hay “Đừng để phá sản vì nợ” đang là những slogan phổ biến của các công ty dịch vụ thu hồi nợ ở Việt Nam.
Các công ty này đang mọc ra khá nhanh tại Hà Nội, TP.HCM và bành trướng các chi nhánh nhằm đáp ứng nhu cầu thu hồi công nợ. Đó là chưa kể hệ thống website, đường dây nóng sẵn sàng hoạt động cả ngày lẫn đêm.
Họ cũng tuyển dụng nhân viên là những người có bằng luật hay kinh tế, am hiểu luật pháp, có gan làm nghề đòi nợ để phục vụ khách hàng… Đó là chưa kể từng công ty cũng bắt tay với các văn phòng tư vấn luật pháp, các công ty luật để cùng xử lý các vụ đòi nợ.
Các chiêu thức đòi nợ cũng được quảng bá khá đa dạng. Các cách thức thông thường bao gồm: gửi thư tín, công văn, tổ chức họp đòi nợ, yêu cầu làm cam kết trả nợ, cấn trừ nợ, trả nợ dần… cho đến kiện tụng hay nhờ cơ quan chức năng can thiệp trong phạm vi cho phép.
Các cách thức “độc chiêu” như: cho người đến địa chỉ của con nợ làm rầy rà, trương băng rôn, biểu ngữ, viết thư gửi cho khách hàng của con nợ, đưa thông tin đòi nợ lên website, bám riết con nợ cũng như liên lạc với người thân của họ để làm cho con nợ mệt mỏi và tìm cách trả nợ cho xong chuyện…
Tuy nhiên, để thuê dịch vụ đòi nợ chuyên nghiệp, các chủ nợ phải tốn khá nhiều chi phí và chấp nhận mất thời gian, công sức. Phí đòi nợ hiện ở thế “ngất ngưởng”, cao nhất có thể lên đến 50% tổng số nợ thu về.
Đó là chưa kể công tác phí và phí điều tra từng khoản nợ sẽ ở mức từ một vài triệu đồng cho đến hàng chục, thậm chí hàng trăm triệu đồng, tùy vào trường hợp cụ thể.
Một số công ty, khi bắt tay vào ký hợp đồng đòi nợ thuê lđã lập tức yêu cầu chủ nợ phải thanh toán khoản phí tương đương 50% tổng trị giá hợp đồng. Số tiền này sẽ không được hoàn lại trong trường hợp không đòi được nợ…
Điều này có nghĩa là một khi đã chấp nhận thuê dịch vụ đòi nợ thì chủ nợ có thể mất thêm nhiều tiền và thêm cả phiền toái, bực mình nếu rủi ro xảy ra khi con nợ và nợ “một đi không trở lại”.
Ông Trần Tuấn Dũng, một nhà kinh doanh tại quận 10, TP.HCM cho biết: “Tôi đã phải mất rất nhiều công sức để tìm ra một công ty làm dịch vụ đòi nợ hiệu quả: dịch vụ tốt, mức phí phù hợp, khả năng hiểu biết luật pháp chắc chắn và hoạt động tư vấn cũng như thực thi thu hồi nợ hiệu quả. Nhưng qua quá trình này tôi thấy, cũng không nên cố đấm ăn xôi. Bởi nếu thu hồi nợ mà tốn nhiều chi phí quá thì thà bấm bụng cho qua, dành thời gian và công sức làm ra khoản tiền mới có ích hơn”.
Theo Công ty Thiên Triệu và cộng sự tại TP.HCM, quy trình đòi nợ giúp của công ty này bao gồm ba bước. Ban đầu, chủ nợ cần cung cấp các giấy tờ liên quan đến khoản nợ.
Kế đó, công ty sẽ điều tra, xác minh tính hợp pháp của hồ sơ vụ việc và các tài liệu liên quan, khả năng tài chính của con nợ, hoạt động kinh doanh cũng như các mối quan hệ của con nợ.
Bước này sẽ diễn ra trong vòng từ 7-10 ngày. Khi có kết quả, công ty này sẽ trao đổi lại với khách hàng để có thể bàn bạc ký hợp đồng thu hồi công nợ hoặc tư vấn cho khách hàng về những vấn đề liên quan đến khoản nợ.

Quy trình này cũng được khá nhiều công ty áp dụng để thu hồi công nợ giúp các chủ nợ.
Tuy nhiên, DFC – một công ty có khá nhiều kinh nghiệm về thu hồi công nợ trên thị trường, có trụ sở tại Hà Nội – thì cho rằng, các chủ nợ cần quan tâm nhiều hơn đến kỹ thuật thu hồi công nợ để cả hai bên có thể cùng vượt qua khủng hoảng nợ nần và sau đó vẫn giữ được mối quan hệ làm ăn.
Trong số những số vụ việc mà công ty này đã giải quyết hàng năm thì 65% có thể xử lý bằng thương lượng và hòa giải, 30% hồ sơ phải thông qua tố tụng tại tòa án có thẩm quyền và 5% còn lại nhờ đến sự can thiệp của các cơ quan chức năng như công an, thi hành án, truyền thông. 

Thống kê này cho thấy, rõ ràng thương lượng và hòa giải là phương án đầu tiên khá hiệu quả, nên được sử dụng trước khi dùng đến các biện pháp mạnh.

Cùng đi tìm hiểu khúc mắc của doanh nghiệp vận tải đường dài: Khó tứ bề

Cuối tháng 4, Công ty Phương Trang gây bất ngờ khi công bố kế hoạch "Bắc tiến". Ông Lê Công Đỉnh, Tổng giám đốc Khối vận tải Công ty Phương Trang, cho biết, để đáp ứng nhu cầu vận chuyển hành khách chất lượng cao trên toàn quốc, từ tháng 5, Phương Trang đưa dịch vụ của mình phục vụ người dân các tỉnh miền Bắc.
Khó khăn tứ phía
Trong lĩnh vực vận chuyển hành khách đường dài, ba cái tên nổi lên ở phía Nam là Mai Linh, Phương Trang, Thành Bưởi. Tuy nhiên, cả ba DN này đều gặp không ít sóng gió thời gian qua.
Trong đó, Mai Linh có bề dày kinh nghiệm hơn 20 năm với tài sản lên đến hàng ngàn tỷ đồng phải tuyên bố bán bớt xe để trả món nợ 500 tỷ cho các cổ đông.
Với đội xe 12.000 chiếc vừa kinh doanh taxi vừa kinh doanh vận chuyển đường dài nhưng việc xoay xở cho món nợ 500 tỷ đồng đối với Mai Linh là hết sức khó khăn.
Trước Mai Linh, Phương Trang cũng đã bỏ việc kinh doanh taxi ở Đà Lạt với khoảng 60 xe và đưa số xe này về TP.HCM. Trước một loạt xe đã hoạt động nhiều năm cùng với việc dẹp bỏ taxi ở Đà Lạt đã dấy lên dư luận Phương Trang sắp phá sản.
Tuy nhiên, đại diện Phương Trang, cho rằng, đây là một một hoạt động bình thường của DN. "Công ty phải co lại những kinh doanh không có lợi và đầu tư cho kênh đang phát triển là vận chuyển đường dài", vị này nói.
Trong khi Phương Trang đã tạm ổn với kế hoạch cắt lỗ thì hiện tại, Thành Bưởi đang loay hoay giải quyết nhiều vấn đề về bến bãi, về văn phòng.
Ông Lê Đức Thành, Giám đốc Công ty Thành Bưởi thường báo "đi tỉnh và bận họp" sau khi đã hẹn phỏng vấn. Sự bận rộn của vị quản lý Thành Bưởi xem ra cũng dễ hiểu vì công ty này "dính" đến hai sự kiện ở Đà Lạt và Cần Thơ.
Cuối tháng 2/2013, bến xe của Thành Bưởi ở Đà Lạt bị Sở Giao thông - Vận tải Lâm Đồng yêu cầu đóng cửa vì không đáp ứng đủ tiêu chuẩn diện tích của một bến xe. Đến cuối tháng 4/2013, văn phòng Cần Thơ cũng gặp rắc rối vì chưa có giấy phép mặc dù đã hoạt động 2 năm nay.
Thành Bưởi khá mạnh ở hai tuyến Đà Lạt - TP.HCM và Đà Lạt - Cần Thơ với 100 xe chất lượng cao nên khi gặp vấn đề với cả hai đầu tuyến này đã khiến công ty hết sức khó khăn.
Thật ra, không chỉ có Mai Linh đầu tư dàn trải mà trong "cơn lốc bất động sản", các DN kinh doanh vận chuyển hành khách đều "lấn sân" sang lĩnh vực này. Cả Mai Linh, Phương Trang, Thành Bưởi... đều đầu tư đa ngành nghề và đều "dính" đến bất động sản.
Nếu như Mai Linh có taxi, vận chuyển khách đường dài, giáo dục, bất động sản..., Phương Trang đầu tư taxi, vận chuyển đường dài và bất động sản thì Thành Bưởi cũng kinh doanh vận chuyển khách đường dài, bất động sản, du lịch lữ hành...
Nhưng do "dính" nhỏ hơn, nên các DN đi sau mau chóng hồi phục hơn.
Phương Trang... "Bắc tiến"
Cuối tháng 4, Công ty Phương Trang gây bất ngờ khi công bố kế hoạch "Bắc tiến". Ông Lê Công Đỉnh, Tổng giám đốc Khối vận tải Công ty Phương Trang, cho biết, để đáp ứng nhu cầu vận chuyển hành khách chất lượng cao trên toàn quốc, từ tháng 5, Phương Trang đưa dịch vụ của mình phục vụ người dân các tỉnh miền Bắc.
Mục tiêu của Phương Trang là đến 2015 sẽ phủ mạng lưới vận chuyển đến tất cả 63 tỉnh, thành trên cả nước.
Chuẩn bị cho kế hoạch này, trong tháng 5, Công ty sẽ đưa thêm 50 xe chất lượng cao vào sử dụng, tăng số lượng xe lên 550 chiếc xe khách loại lớn và 500 xe vận chuyển nhỏ.
Bên cạnh đó, Công ty cũng xây dựng các trạm dừng chân trên những chặng đường dài, với các sản phẩm đặc trưng của từng vùng miền để phục vụ hành khách.
"Bước đệm đầu tiên khi mở thị trường ra phía Bắc là chúng tôi mở tuyến Đà Nẵng - Hà Nội. Chúng tôi đang làm việc với hai đầu bến để đảm bảo giá vé bằng hoặc thấp hơn các DN khác đang hoạt động cùng tuyến", ông Đỉnh nói.
Với kế hoạch này, Phương Trang đã đầu tư trên 200 tỷ đồng, trong đó, kinh phí cho xe mới là hơn 180 tỷ đồng, kinh phí cho trạm dừng chân Đà Nẵng - Hà Nội 22 tỷ đồng. Không chỉ đầu tư vào vận chuyển đường dài, Phương Trang còn đầu tư vào lĩnh vực vận chuyển hàng hóa nhanh.
Thách thức
Theo phân tích của nhiều chuyên gia trong ngành vận tải, việc Phương Trang mở rộng hoạt động, khai thác thị trường phía Bắc là một bước đi đầy tham vọng nhưng cũng đầy mạo hiểm.
Cơ hội của Phương Trang trong thời điểm này là Mai Linh vẫn còn đang phải loay hoay với việc giải quyết nợ nần cho các cổ đông nên không thể phát triển kinh doanh, trong khi đó, các DN còn lại chưa đủ lớn để lấn át Phương Trang.
Trước khi khai phá thị trường phía Bắc, Phương Trang đã khai thác thị trường miền Trung vào đầu năm nay và chọn đây là "bàn đạp" tiến ra Bắc.
200 tỷ đồng
Phương Trang đã đầu tư trên 200 tỷ đồng, trong đó, kinh phí cho xe mới là hơn 180 tỷ đồng, kinh phí cho trạm dừng chân Đà Nẵng - Hà Nội 22 tỷ đồng
Dù đã tuyên bố sẽ mở rộng thị trường ra phía Bắc, phấn đấu đến năm 2015 sẽ có mặt đều khắp ở 63 tỉnh thành nhưng ở thời điểm hiện tại, Phương Trang mới chạy trên 24 tuyến và thị phần chủ yếu là khu vực đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên và một số tỉnh miền Trung.
Đầu tư trong điều kiện nền kinh tế vẫn còn khó khăn lại phải chịu sự cạnh gay gắt giữa các loại hình vận tải, đặc biệt là vận tải hàng không giá rẻ, liệu mục tiêu phủ khắp cả nước của Phương Trang có đạt được là một câu hỏi lớn.
Tại miền Trung, xe khách chất lượng cao đã có những thương hiệu như Thuận Thảo, Xuân Tùng, Ba Nga, Tư Nghĩa... còn tại miền Bắc là Hoàng Long.
Trong đó, Thuận Thảo là một DN vận chuyển hành khách chất lượng cao nổi tiếng khu vực miền Trung. Năm 2011, DN này đã trang bị hơn 100 xe, chiếm đến 90% thị phần vận tải từ Phú Yên đi các tỉnh và chiếm 60% các tuyến liên tỉnh từ Bình Định.
Hiểu rõ thách thức, rút kinh nghiệm thực tế ngay chính hoạt động của mình và những công ty khác, Phương Trang không mở tuyến đường dài mà chọn các tuyến ngắn (dưới 300km).
Thay vì mở tuyến TP.HCM - Hà Nội, Phương Trang tách làm hai hành trình: TP.HCM - Đà Nẵng và Đà Nẵng - Hà Nội. Tiếp đó là các tuyến Hà Nội - Vinh, Hà Nội - Nghệ An, Hà Nội - Ninh Bình...
Với hình thức này, Phương Trang đang phát triển cả xe lẫn luồng tuyến và các thị trường ngách. Theo ông Đỉnh, ngành vận tải ô tô có lợi thế ở những tuyến đường ngắn dưới 300km mà hàng không, không thực hiện được.
"Chúng tôi đã phát triển mô hình này ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và rất thành công nên sẽ áp dụng ra các tỉnh phía Bắc. Và trong thời gian đầu, chúng tôi chỉ mở một vài tuyến để rút kinh nghiệm, sau đó sẽ từng bước nhân rộng", ông Đỉnh cho biết.

Tìm hiểu nguyên nhân nông sản: Chất lượng cao vẫn ế

Hiện trong hơn 7.000 ha diện tích chuyên canh hành tím ở Vĩnh Châu, khoảng 1.000 ha được các DN đầu tư sản xuất theo tiêu chuẩn GlobalGAP. Đây được xem là bước đột phá quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cho củ hành nhằm đáp ứng yêu cầu của những thị trường nhập khẩu khó tính như Indonesia, Singapore, Malaysia, Philippines…
Người dân bỏ vốn lớn và nhiều công sức để trồng các loại nông sản chất lượng cao theo tiêu chuẩn quốc tế nhưng sau khi thu hoạch lại bán không được hoặc bán với giá thấp.
Lúa chất lượng cao Jasmine khó tiêu thụ, nhiều nơi thương lái mua với giá ngang bằng với lúa phẩm cấp thấp. Trong ảnh: Thu hoạch lúa Jasmine ở TP Cần Thơ
Chuyện HTX Mỹ Thành (xã Mỹ Thành Nam, huyện Cai Lậy - Tiền Giang) bỏ trồng lúa theo tiêu chuẩn GlobalGAP (Thực hành nông nghiệp tốt toàn cầu) mang đầy vị đắng của nông sản chất lượng cao ở ĐBSCL hiện nay.
Trước đó, các xã viên HTX này đã dày công thực hiện 4 tiêu chí quan trọng trong quá trình sản xuất, thu hoạch và xử lý sau thu hoạch theo tiêu chuẩn GlobalGAP nhưng đùng một cái, doanh nghiệp (DN) bao tiêu đầu ra ngừng mua. Tất cả lâm vào bế tắc!
Khuyến cáo trồng nhưng không bán được
Trường hợp như HTX Mỹ Thành không phải cá biệt. Vụ đông xuân vừa qua, nhiều nông dân ở các tỉnh An Giang, Kiên Giang và TP Cần Thơ trồng lúa thơm Jasmine đã chán nản khi DN “đánh đồng” giá lúa thơm này với các loại lúa phẩm cấp thấp, như IR50404. Nguyên nhân là do diện tích lúa thơm tăng đột biến, DN thì kêu ca nông dân trồng lúa thơm mà để lẫn tạp nhiều nên không chịu mua giá cao. 
Theo ông Nguyễn Minh Nghĩa, Phó trưởng Phòng NN-PTNT huyện Tân Hiệp - Kiên Giang, ngành nông nghiệp khuyến cáo trồng lúa chất lượng cao nhưng sau thu hoạch lại không bán được khiến nông dân bức xúc.
Có đến 70% trong tổng số 300.439 ha lúa đông xuân của tỉnh Kiên Giang được trồng các loại lúa chất lượng cao như Jasmine, lúa hạt dài…, chi phí cao hơn nhiều so với lúa thường, nguy cơ bị sâu bệnh, dịch hại cũng cao hơn.

Thế nhưng, theo ông Nguyễn Quang Bình, Trưởng Phòng Quản lý xuất nhập khẩu và Hợp tác kinh tế quốc tế - Sở Công Thương tỉnh Kiên Giang, năm nay, xuất khẩu gạo gặp khó, DN không ký được hợp đồng bán các loại gạo chất lượng cao nên chỉ tìm mua gạo phẩm cấp thấp để chế biến xuất khẩu theo đơn đặt hàng.
TS Lê Văn Bảnh, Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL, trăn trở: “Nghịch lý là nông dân cứ trồng, khi nào có nhu cầu thì DN mới thu mua. Lẽ ra, DN phải tìm thị trường trước rồi lên kế hoạch, đặt hàng nông dân trồng”.
“Chết” theo GlobalGAP
Mất tiền tỉ vì bị động
Indonesia là thị trường lớn của hành tím Vĩnh Châu, tiêu thụ đến 70% sản lượng mỗi năm. Do đó, khi nước này đưa ra tiêu chuẩn GlobalGAP, các DN xuất khẩu hành ở Vĩnh Châu đã không ngần ngại chi tiền tỉ để đầu tư vùng nguyên liệu đạt tiêu chuẩn GlobalGAP. Thế nhưng, khi yêu cầu GlobalGAP được đáp ứng, phía nhập khẩu lại đặt ra tiêu chuẩn hạn ngạch nhập khẩu hành rất nhỏ giọt khiến hành tím Vĩnh Châu bán không hết, ứ đọng nhiều.
Mùa vụ vừa qua, hành tím Vĩnh Châu (Sóc Trăng) đạt năng suất rất cao, bình quân 20 tấn/ha, nhưng cả nông dân trồng hành lẫn DN xuất khẩu chẳng vui bởi giá giảm mạnh, lại khó tiêu thụ.
Cánh cửa thị trường xuất khẩu đối với củ hành tím dường như đang hẹp dần vì những rào cản kỹ thuật từ các nước nhập khẩu, ngay cả khi đã đạt chuẩn GlobalGAP.
Những ngày này, dọc theo những tuyến đường về các xã chuyên canh hành tím như Vĩnh Tân, Vĩnh Hải và Lạc Hòa (thuộc thị xã Vĩnh Châu - Sóc Trăng) chất đầy hành tím. Nhiều hộ người Khmer vừa thu hoạch vừa trông ngóng thương lái đến mua. Có người còn đem hành chất đống ngoài đường để chào hàng.
Theo tính toán của nông dân, nếu phải bỏ tiền ra mua giống thì chi phí cho 1 ha hành đến lúc thu hoạch khoảng 100 triệu đồng. Đầu tư lớn, nông dân hy vọng lãi to nếu đến cuối mùa đạt năng suất cao và bán được giá.

Tuy nhiên, hành tím Vĩnh Châu lại rơi vào cảnh được mùa - mất giá. Bà Tăng Thị Phươl (xã Lạc Hòa) cho biết: “Đầu vụ, giá hành tím khoảng 12.000-13.000 đồng/kg, đến khi thu hoạch chỉ còn khoảng 7.000 đồng/kg và nay rớt xuống 5.000 đồng/kg. Với giá này, nếu bán được hết thì bình quân 1 ha phải lỗ khoảng 30 triệu đồng, nếu bán không được thì coi như trắng tay và khó tránh khỏi cảnh nợ nần”.
Năm trước, hiện tượng rớt giá thê thảm của hành tím Vĩnh Châu được các ngành chức năng lý giải là do diện tích trồng hành tím ở đây tăng đột biến. Cùng thời điểm, các nước trong khu vực trúng mùa khiến cung vượt cầu nên một số thị trường nhập khẩu hành truyền thống của Việt Nam giảm mua.
Tuy nhiên, vụ hành năm 2013 này, diện tích trồng hành ở Vĩnh Châu đã giảm khoảng 1.000 ha và chất lượng cũng được nâng lên nhưng giá hành vẫn tiếp tục giảm mạnh. Điều đó cho thấy đầu ra của củ hành tím đang gặp khó chủ yếu bởi những rào cản kỹ thuật. Trong khi đó, đây lại là vấn đề vượt quá tầm giải quyết của nông dân và DN.
Hiện trong hơn 7.000 ha diện tích chuyên canh hành tím ở Vĩnh Châu, khoảng 1.000 ha được các DN đầu tư sản xuất theo tiêu chuẩn GlobalGAP. Đây được xem là bước đột phá quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cho củ hành nhằm đáp ứng yêu cầu của những thị trường nhập khẩu khó tính như Indonesia, Singapore, Malaysia, Philippines…
Tiền tỉ đã được đầu tư nhưng giá hành đạt chuẩn GlobalGAP chẳng những không cao như kỳ vọng mà còn tiêu thụ khó khăn. Ông Trịnh Đức Vinh, Giám đốc DNTN Đức Vinh (Sóc Trăng), ngao ngán: “Chi phí đầu tư cho canh tác theo tiêu chuẩn GlobalGAP cao gấp nhiều lần so với canh tác thông thường, vậy mà đầu ra cũng chẳng khá hơn. Cho nên, bỏ tiền vào GlobalGAP là coi như mất trắng”.

Tìm hiểu việc “Hôn nhân” có trải hoa hồng?

. Sự thu xếp khéo léo của Chủ tịch Hội đồng quản trị SHB đối với nhân sự HBB, mà kể cả các vị trí lãnh đạo chủ chốt cũng phải có sự dịch chuyển về đảm nhiệm vị trí của nhân sự cấp thấp và trung tại đây, có thể khiến người ngoài nhìn vào thấy khó hiểu, nhưng cũng là một yếu tố đảm bảo thành công dài lâu cho SHB thời kỳ hậu M&A, khi sự nể vì, sống lâu lên lão làng theo tập tính kinh doanh của người Việt đã bắt buộc phải nhường chỗ cho quản trị nhân sự phù hợp với chuẩn mực quản trị của ngân hàng mới.
Với tỉ lệ hợp nhất 1:1, cuộc hôn nhân giữa Tổng Cty cổ phần Tài chính Dầu khí PVFC và Ngân hàng Phương Tây –WesternBank (WTB) được cho là “môn đăng hộ đối”.
Được hưởng nhiều đặc quyền từ hiện hữu của một cổ đông lớn trong nền kinh tế nước nhà – Tập đoàn Dầu khí Việt Nam PVN - PVFC có nhiều điểm son hơn hẳn nếu so sánh “gia thế” với WTB.
Kẻ tám lạng
Điểm son đầu tiên khiến PVFC có thể “đè bẹp” WTB là vốn và tổng tài sản. Tiền hôn nhân, PVFC có vốn điều lệ 6.000 tỉ đồng. Tổng tài sản chốt đến 31/12/2012 là 88.806 tỉ đồng. Nếu xét riêng về tốc độ tăng trưởng, PVFC có tốc độ tăng trưởng tổng tài sản khá nhanh. Đến 2011, quy mô tổng tài sản của PVFC đạt hơn 89 nghìn tỉ đồng, tăng 98% so với năm 2008 và tăng 34,04% so với năm 2010. Đến năm 2012, với một số khó khăn nhất định, tốc độ tăng trưởng này đã thụt lùi nhưng cũng chỉ giảm 1% so với năm 2011 và vẫn đảm bảo cho PVFC có lợi thế. Còn xét về giá trị tuyệt đối, mặc dù là một Cty tài chính và chưa hoạt động đầy đủ các nghiệp vụ như một ngân hàng thương mại, PVFC vẫn có quy mô tổng tài sản lớn ngang với những ngân hàng thương mại cỡ trung bình (tất nhiên chưa thể so sánh với các ngân hàng thương mại lớn).
Nếu lấy số liệu quý I/2013, tổng tài sản của PVFC còn 87.360 tỉ đồng để so sánh, thì PVFC hiện đang có tổng tài sản xấp xỉ VPB (112.611 tỉ đồng- số liệu quý I/2013), SHB (104.400 tỉ đồng – quý I/2013), khá cách xa so với 4 tứ trụ ngân hàng hoặc 1 số ngân hàng thương mại lớn hàng đầu như STB, EIB, TCB và MBB. Tuy nhiên, PVFC lại đang có tổng tài sản cao hơn một số ngân hàng thương mại cỡ trung bình khá (từ dưới lên) như ĐongABank (69.804 tỉ đồng/ số liệu quý I/2013), OceanBank (65.064 tỉ đồng- số liệu quý I/2013), VIB (65.036 tỉ đồng-số liệu quý IV/2013)… Về vốn chủ sở hữu, quy mô vốn chủ của PVFC trong giai đoạn 2008-2011 có sự tăng chậm với mức tăng chỉ khoảng 11%. Năm 2012, vốn chủ sở hữu của PVFC đạt 6.834,8 tỉ đồng. Qua quý I/2013, vốn chủ sở hữu cũng sụt giảm xuống còn 6.644 tỉ đồng.
Như vậy, mặc dù đã và đang giảm về quy mô tổng tài sản lẫn vốn đầu tư chủ sở hữu bắt đầu từ năm 2012 đến quý I/2013, nhưng PVFC vẫn có lợi thế lớn của một Cty tài chính lớn nhất trong các Cty tài chính, cũng như có sự ngang hàng với các NHTM cỡ trung bình. (Theo tiêu chí NHTM đứng đầu có tổng tài sản từ 100.000 tỉ đồng và vốn chủ 9.000 tỉ đồng trở lên; Nhóm NHTM trung bình có tổng tài sản trong khoảng 45.000-100.000 tỉ đồng, vốn chủ sở hữu trong khoảng 4.500-9.000 tỉ đồng). Theo bảng xếp loại của chính PVFC thì Tổng Cty đang đứng thứ 12 trong số các TCTD (Nguồn: Báo cáo tóm tắt Đề án hợp nhất).
Người nửa cân
“Thấp bé nhẹ cân” hơn về quy mô tổng tài sản cũng như vốn chủ sở hữu, nhưng WTB lại có lợi thế là các “mác” NHTM, điều mà PVFC đã “mơ” rất lâu. Trước đó, PVFC đã xác định định hướng trở thành NHTM. Trong chiến lược PVFC nêu rõ mục tiêu của Cty: “Là định chế tài chính của Tập đoàn Dầu khí Quốc Gia VN và là ngân hàng thương mại mạnh trong lĩnh vực năng lượng của khu vực, tạo lập thương hiệu có uy tín trên thị trường trong nước và thế giới.”
Vì vậy, việc hợp nhất WTB, mặc dù có thể có sự khập khiễng về vốn liếng, tổng tài sản cũng như một vài yếu tố khác, nhưng lại vẫn được xem là cuộc hôn nhân cân xứng do WTB sẽ mang lại cơ hội trở thành NHTM cho PVFC, mà trong suốt thời gian qua, PVFC đã tìm kiếm “ý trung nhân” nhưng chưa đạt như ý nguyện.
Về tổng tài sản, WTB là ngân hàng có giá trị tuyệt đối khá khiêm tốn. Dù vậy, với tổng tài sản ước khoảng 16.000 tỉ đồng của WTB, ngân hàng sau hợp nhất vẫn có thể đạt tổng tài sản trên 100.000 tỉ đồng. Vốn điều lệ đạt đủ mức thấp nhất theo yêu cầu vốn pháp định của các NHTM, của WTB là 3.000 tỉ đồng, hợp nhất vốn với PVFC (lớn gấp đôi), cũng sẽ cho một NH có vốn điều lệ 9.000 tỉ đồng. Như vậy, ngân hàng tương lai sẽ sánh ngang với những NHTM như SHB, VPB và cơ hội để cạnh tranh, vươn lên trong Top những ngân hàng lớn như STB, EIB (nếu không hợp nhất) là rất lớn.
Đương nhiên, một trong những điều đáng ngại nhất từ WTB tiền hôn nhân là ngân hàng này đang có khoản tiền gửi liên ngân hàng 1.118 tỉ đồng đã quá hạn tại 2 ngân hàng Sài Gòn Hợp Nhất và TrustBank (Đại Tín) và phải trích lập dự phòng 50%, tương đương 559 tỉ đồng. Một số các chỉ tiêu kinh doanh khác như dư nợ tín dụng có nhiều nằm dưới dạng ủy thác đầu tư và đặt cọc môi giới chứng khoán trong đó những khoản đầu tư trị giá lớn mà chưa có tài sản đảm bảo, các khoản đầu tư phải trích lập dự phòng giảm giá lớn và khoản lỗ lũy kế trên hạch toán kế toán tính đến quý I/2012… khiến về cơ bản, WTB có khả năng gặp khó khăn thanh khoản trung và dài hạn.
Song, ở thời điểm hiện nay, sức khỏe của WTB đã có sự cải thiện. WTB đã nỗ lực tự tái cấu trúc tài sản và kết thúc năm 2012, ngân hàng đã đạt 42 tỉ đồng lợi nhuận sau thuế. Đặc biệt, cam kết bán vốn của nhóm cổ đông chiếm tỉ lệ 90% cổ phần WTB, tương ứng số vốn điều lệ 2.700 tỉ đồng và thực tế một nhóm cổ đông mới vào thay thế đã mang đến WTB nguồn lực mới, hiểu ở 2 phương diện tiền thực lẫn giá trị tinh thần đồng nhất với định hướng hợp nhất và tìm kiếm con đường mới cho WTB.
Đây mới là tiền đề quan trọng để 2 kẻ “tám lạng, nửa cân” gặp nhau và dự kiến cuộc hôn nhân sẽ có thể hoàn tất vào tháng 7 năm nay.
Chìa khóa để “cơm lành canh ngọt”
Một cuộc hôn nhân ít khập khiễng và trong đó đôi bên đều có lợi, không bên nào phải quá “kiễng chân” để với tới bên nào, thông thường sẽ là nền tảng cho đời sống yên ả hậu hôn nhân.
Với cuộc hôn nhân giữa “anh” bán buôn và “nàng” bán lẻ như PVFC và WTB, nhiều người đang kỳ vọng những rào cản về khó khăn thanh khoản của WTB, 2 hạng mục tín dụng liên quan đến Vinashin và Vinalines của PVFC mà thực tế nếu sử dụng lợi nhuận và quỹ dự phòng để trích lập toàn phần, PVFC sẽ “trắng tay”… sẽ không ngăn trở được cơ hội phát triển của ngân hàng tương lai.
Trong đó, sự đường hoàng “danh chính ngôn thuận” phát triển nghiệp vụ huy động vốn ngoài Tập đoàn PVN – cổ đông lớn vẫn cam kết hậu thuẫn cho ngân hàng mới sau hợp nhất – không còn “bó chân bó tay” trong thực thi các nghiệp vụ bán buôn lẫn bán lẻ, là rất quan trọng. Khoảng 100 điểm giao dịch của 2 tổ chức sau hợp nhất là hệ thống mạng lưới đáng vị nể (nếu so với mạng lưới của một NHTM có mạng lưới phát triển hàng đầu như STB, sẽ chiếm bằng khoảng 1/3).
Quan trọng hơn nữa, cả hai tổ chức đều đã có sự đồng thuận về nhân sự. Theo các chuyên gia tư vấn tài chính, đây là mấu chốt thành công của bất kỳ thương vụ nào ở thời kỳ hậu M&A. Cơm có lành, canh có ngọt hay không phụ thuộc vào mấu chốt đó. Sự thành công của Sài Gòn Hợp Nhất, từ ba ngân hàng có các ông bà chủ có mối liên đới mật thiết với nhau, ngoài sự đỡ đầu của NHNN và BIDV, nếu không có yếu tố đồng thuận về nhân sự theo kiểu “châu về hợp phố”, chưa hẳn dễ đạt đến thành công (dù mới chỉ bước đầu) như hôm nay
. Sự thu xếp khéo léo của Chủ tịch Hội đồng quản trị SHB đối với nhân sự HBB, mà kể cả các vị trí lãnh đạo chủ chốt cũng phải có sự dịch chuyển về đảm nhiệm vị trí của nhân sự cấp thấp và trung tại đây, có thể khiến người ngoài nhìn vào thấy khó hiểu, nhưng cũng là một yếu tố đảm bảo thành công dài lâu cho SHB thời kỳ hậu M&A, khi sự nể vì, sống lâu lên lão làng theo tập tính kinh doanh của người Việt đã bắt buộc phải nhường chỗ cho quản trị nhân sự phù hợp với chuẩn mực quản trị của ngân hàng mới.
Hiện tại, chưa biết các cổ đông WTB sẽ có chỗ ngồi như thế nào trong ngân hàng hợp nhất. Một điều chắc chắn là cánh tay mạnh mẽ của PVN sẽ khó buông lơi việc hậu thuẫn cho ngân hàng hợp nhất. Và do đó, các nhân sự chủ chốt có thể vẫn sẽ phải là người của PVN.
Chỉ hy vọng, nếu sau hôn nhân, PVN vừa giữ đúng cam kết hậu thuẫn cho ngân hàng vừa sớm thực thi động thái thoái vốn với tỉ lệ đã định, để tạo cơ hội để các cổ đông lớn như Morgan Stanley nâng tỉ lệ sở hữu. Điều đó sẽ giúp ngân hàng hợp nhất bớt “chông chênh” và quan trọng, có thể xuất hiện nhân tố mới là các nhân sự từ bên ngoài.
Một cuộc hôn nhân được hình dung sẽ "ngọt ngào" do tạo ra được thực thể lớn về quy mô, mạnh về vốn. Tuy nhiên, vẫn rất cần những khung chuẩn mực cho "đời sống hậu hôn nhân". Những con người cũ, những thói quen, nếp kinh doanh theo mô hình cũ liệu có thể điều chỉnh để dung hòa?

Theo kế hoạch kinh doanh được xây dựng chi tiết và cụ thể trong đề án hợp nhất, dự kiến ngân hàng hợp nhất sẽ đạt được các chỉ tiêu an toàn tài chính và hiệu quả hoạt động như sau:
- Vốn điều lệ từ năm 2013-2014: 9.000 tỉ đồng; năm 2015: 12.000 tỉ đồng
- Tỉ lệ an toàn vốn CAR từ năm 2013- 2015: 10,10%; 9,03%; 9,60%
- Nguồn huy động vốn từ thị trường 1/ tổng tài sản từ năm 2013 -2015: 33%: 37%, 41%
- Nguồn vốn huy động từ thị trường 2/ tổng tài sản từ năm 2013-2015: 45%; 40%; 34%
- Vốn tự có/ tổng tài sản từ năm 2013-2015: 6%; 5%; 5%
- Tỉ lệ cho vay/ nguồn huy động từ năm 2013-2015: 69%; 71%, 73%
- Tỉ lệ tài sản gửi liên ngân hàng/ nguồn huy động liên ngân hàng từ năm 2013-2015: 88%, 100%, 108%
- ROE từ năm 2013-2015: 15,38%; 19,64%; 18,41%
- ROA từ năm 2013-2015: 0,87%; 0,93%; 0,94%